đường vô xứ huế quanh quanh
Đường vô xứ Huế quanh quanh. Đường vô xứ Huế quanh quanh. Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Thương em anh cũng muốn vô. Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang. - Phá Tam Giang ngày rày đã cạn. Truông Nhà Hồ nội tán phá tan. Đường vô muôn dặm quan san. Anh vô anh được bình an em mừng.
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Đường ra Hà Nội như tranh vẽ rồng. Thừa Thiên - Huế: Ngọ Môn năm cửa chín lầu Cột cờ ba bậc, Phú Văn Lâu hai tầng. Đi mô cũng nhớ quê mình Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh.
Đường vô xứ Huế quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ Thương anh em cũng muốn vô Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam giang. Phá Tam giang ngày rày đã cạn… Con gái Huế có tên khá đặc biệt.
Đường vô xứ Huế quanh quanh Thương em anh cũng muốn vô Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang! Không biết từ bao giờ, phá Tam Giang đã đi vào thi ca bằng những câu thơ chứa đựng nỗi buồn man mác của bao thi nhân, lữ khách mỗi khi qua lại vùng này đến vậy. Chỉ biết rằng
Đường vô xứ Huế quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ Khi chúng ta biết để Huế không chỉ qua dòng sông Hương quanh co uốn lượn như cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, những câu hò Huế mượt mà đằm thắm, khúc nhã nhạc cung đình,…mà chúng ta còn biết đến núi Truồi. Vì thế mà trong ca dao xưa có bài: Núi Truồi ai đắp mà cao,
hadits tentang pemuda masa kini pemimpin masa depan. Bài ca dao ba câu lục bát, dừng lại ở câu lục, một hiện tượng độc đáo, ít thấy trong thơ ca dân gian “Đường vô xứ Huế quanh quanh Non xanh nước biếc nhu tranh họa đồ. Ai vô xứ Huế thì vô…” Có nhiều người cho rằng bài ca dao này nói về cảnh đẹp xứ Huế. Chưa đầy đủ. Không gian địa lí và không gian nghệ thuật được nói trong bài ca dao rộng lớn hơn nhiều. Câu thứ nhất nói về “đường vô xứ Huê”, đó là con đường rất dài phải qua chí ít sáu tỉnh miền Trung từ Bắc đi vào Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Hai chữ “quanh quanh” gợi tả sự uốn lượn, khúc khuỷu, hiểm trở, gập ghềnh xa xôi. Ngày xưa vô Huế phải vượt qua “Hoành Sơn nhất đái” một dải Hoành Sơn, phải vượt qua bao sông suối, núi đèo; sông Mã, sông Lam, sông La, sông Gianh, sông Thạch Hãn… đến sông Hương núi Ngự. Phải qua núi Hồng Lĩnh, đèo Ngang, lũy Thầy, truông Nhà Hồ, phá Tam Giang… Hồng Sơn cao ngất mấy tầng, Đò Cài mấy trượng là lòng bấy nhiêu ! Nguyễn Du “Yêu em anh cũng muốn vô, Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang” Ca dao Câu thứ hai nêu lên một ấn tượng khái quát về cảnh sắc thiên nhiên trên “đường vô xứ Huê”. “Non xanh nước biếc” vừa là thành ngữ vừa là hình ảnh rất đẹp, có màu “xanh” bất tận của non, có màu “biếc” mê hồn của nước. Đó là cảnh sông núi tráng lệ, hùng vĩ, hữu tình, nên thơ… “Non xanh nước biếc” ấy lại được so sánh “như tranh họa đồ” gợi lên trong lòng người niềm tự hào về giang sơn gấm vóc, về quê hương đất nước kì thú, xinh đẹp, mến yêu. Câu cuối là lời chào mời chân tinh, như một tiếng lòng vẫy gọi “Ai vô xứ Huế thì vô“… Vô xứ Nghệ hay vô xứ Huế là đến với một miền quê rất đẹp, rất đáng yêu có “Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”. Bởi thế, nhà thơ Huy Cận mới viết … “Ai đi vô nơi đây Xin dừng chân xứ Nghệ Ai đi ra nơi này Xin chân dừng xứ Nghệ. Nghe câu hò ví giặm Càng lắng lại càng sâu Như sông La chảy chậm Đọng bao thủa vui sầu” “Gởi bạn người Nghệ Tĩnh” Bài ca dao “Đường Vớ xứ Huế quanh quanh" đích thực là một viên ngọc trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam. Nó là bài ca về tình yêu và niềm tự hào đối với quê hương đất nước. Hình tượng mĩ lệ, vần điệu nhạc điệu du dương. Ba chữ “vô” rất mộc mạc đậm đà. Vần chân, vần lưng, điệp thanh phối hợp hài hòa “quanh quanh – xanh – tranh”, “vô – đồ – vổ – vô“, gợi lên sự ân cần tha thiết. “Ai” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, nhưng người đọc, dù quê hương ở đâu vẫn cảm thấy mình đang được mời gọi....
Đường vô xứ Huế quanh quanh Đường vô xứ Huế quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ Thương em anh cũng muốn vô Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang – Phá Tam Giang ngày rày đã cạn Truông Nhà Hồ nội tán phá tan Đường vô muôn dặm quan san Anh vô anh được bình an em mừng Cùng thể loại Tam Sơn chảy xuống ba Hà Tam Sơn chảy xuống ba Hà Qua đình Hà Thượng chảy ra Cánh Hòm Hỡi ai đi sớm về trưa Hỡi ai đi sớm về trưa Kìa Bát Tốt Lát đón đưa chào mời Hương thơm khói đậm tuyệt vời Hút cho một điếu cho đời thêm tươi Ai về thăm xóm Lò Nồi Ai về thăm xóm Lò Nồi Mà xem cái bát sáng ngời nước men An Tử có đất trồng chè An Tử có đất trồng chè, Chồng gọi, vợ bảo cái gì hắn kia? Thái Bình có chú Phạm Tuân Thái Bình có chú Phạm Tuân Bay vào vũ trụ một tuần về ngay Dị bản Hoan hô đồng chí Phạm Tuân Bay vào vũ trũ một tuần về ngay Thái Bình có cái cầu Bo Thái Bình có cái cầu Bo Có nhà máy cháo, có lò đúc muôi Sá chi thân phận con quy Sá chi thân phận con quy Ngày thì bùn lấm, đêm thì gió sương – Cây khô mấy thuở mọc chồi Cá mại dưới nước mấy đời hóa long Cha chài, mẹ lưới bên sông Cha chài, mẹ lưới bên sông Đứa con thi đậu làm ông trên bờ Dị bản Cha chài, mẹ lưới, con câu Có con hay chữ làm quan trên bờ Trông lên hòn núi Tam Thai Trông lên hòn núi Tam Thai Thấy đôi chim quạ ăn xoài chín cây Quạ kêu ba tiếng quạ bay Để bầy chim én đêm ngày chắt chiu Trai thì nhất bảng đề danh Trai thì nhất bảng đề danh Gái thời dệt cửi vừa lanh vừa tài Có cùng từ khóa Bao giờ nước ráo làm mây Bao giờ nước ráo làm mây, Sông Hương hết chảy, dạ này mới thôi. Khoai môn Mỹ Á Khoai môn Mỹ Á, Mía mả Nam Trường, Nương vườn Mỹ Lợi Nhất Huế nhì Sịa Nhất Huế nhì Sịa Ngọn núi Truồi vừa cao vừa dựng Ngọn núi Truồi vừa cao vừa dựng, Lòng người Thừa Thiên vừa cứng vừa dai, Dù cho nắng sớm, mưa mai, Sóng dồn, gió dập vẫn mong hoài gặp nhau. Trần Hoàn cùng với Bùi San Trần Hoàn cùng với Bùi San Hai thằng hợp tác phá đàn Nam Giao Câu đối cụ Phan, chữ nghè Đàn Câu đối cụ Phan, chữ nghè Đàn Con Nguồn Dinh cá kình cá chép Con Nguồn Dinh cá kình cá chép Con Nguồn Bồ con tép con cua Con vua thì lại làm vua Con sãi ở chùa thì quét lá đa Bao giờ đất nổi can qua Con vua thất thế lại ra quét chùa Ai về ghé lại quê tôi Ai về ghé lại quê tôi, Hương Cần nón, quýt một thời nổi danh Ơi o bán cốm hai lu Ơi o bán cốm hai lu Có về An Thuận cho tui về cùng Lan, Đính, Chính, Tường Lan, Đính, Chính, Tường Bốn tên phản động tìm đường mà đi Truông Vùng đất hoang, có nhiều cây thấp, lùm bụi, hoặc đường qua rừng núi, chỗ hiểm trở theo Đại Nam quấc âm tự vị. Truông nhà Hồ Một địa danh nằm giữa xã Vĩnh Chấp, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị và xã Sen Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Từ nhà Hồ ngày xưa dùng chỉ đất của người Hồ tức Chiêm Thành cũ. Theo Giáo sư Tôn Thất Bình, một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian miền Trung Việt Nam, thì xưa kia đây là một vùng đất rộng bạt ngàn, cây cối um tùm, là sào huyệt của một băng cướp rất nguy hiểm, ai đi qua cũng thường bị chúng bắt bớ, giết chóc. Sau này truông Nhà Hồ còn là nơi trú ngụ của các nghĩa sĩ Cần Vương đi theo vua Hàm Nghi và quan đại thần Tôn Thất Thuyết chống thực dân Pháp. Phá Tam Giang Tên một cái phá nay thuộc địa phận của ba huyện là Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế. Phá Tam Giang có khúc cạn khúc sâu bất thường nên việc đi lại rất khó khăn nguy hiểm. Ngày nay phá Tam Giang là một hệ sinh thái rộng 52 km², cung cấp hàng nghìn tấn hải sản hàng năm, đồng thời cũng là một địa điểm du lịch khá nổi tiếng của Huế. Phá Tam Giang Rày Nay, bây giờ phương ngữ. Nguyễn Khoa Đăng 1691 - 1725 Một đại thần thời Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu. Ông là người thông minh mưu lược, cương trực thẳng thắn, có tài xử kiện, làm quan đến chức Nội Tán kiêm Án Sát Sứ, nên nhân dân gọi ông là quan Nội Tán. Tương truyền ông có công dẹp yên giặc cướp ở truông Nhà Hồ và trừ sóng dữ ở phá Tam Giang. Quan san Cửa ải quan và núi non san, cũng nói là quan sơn từ Hán Việt. Trong văn chương, quan san thường được dùng để chỉ đường sá xa xôi, cách trở. Người lên ngựa, kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san Truyện Kiều Tam Sơn Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Tam Sơn, hãy đóng góp cho chúng tôi. Ba Hà Tức Hà Thượng, Hà Trung, Hà Hạ nay là Hà Thanh, ba làng nghề được lập vào cuối thế kỉ 15, nay thuộc địa phận Gio Linh, Quảng Trị. Cánh Hòm Một con sông trải dài trên diện tích phía đông của huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, nối liền sông Thạch Hãn ở phía Nam và sông Bến Hải ở phía Bắc. Bastos Luxe Giới bình dân gọi là "Bát Tốt Lát" hay "Bát Tốt Lút," một nhãn thuốc lá đầu lọc của hãng Juan Bastos phổ biến vào những năm 1960 ở Sài Gòn. Lò Nồi Tên một xóm xưa thuộc tổng Dưỡng Động, nay là xã Minh Tân, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. An Tử Tên một thôn nay thuộc xã Khởi Nghĩa, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Thái Bình Địa danh nay là một tỉnh ven biển ở đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội khoảng 110 km. Phần đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay trước đây thuộc về trấn Sơn Nam. Tới năm Thành Thái thứ hai 1890 tỉnh Thái Bình được thành lập. Tỉnh có nhiều khu du lịch và danh lam thắng cảnh nổi tiếng như bãi biển Đồng Châu, cồn Vành, chùa Keo... Các ngành nghề truyền thống như chạm bạc, làm chiếu ở đây cũng khá phát triển. Ngoài ra, Thái Bình còn được mệnh danh là Quê Lúa. Bãi biển Đồng Châu Cầu Bo Tên dân gian của cầu Độc Lập bắc qua sông Trà Lý, xưa thuộc làng Bo, tỉnh Thái Bình. Cầu Bo những năm 1920 Quy Con rùa từ Hán Việt. Cá mại Loài cá nước ngọt cùng họ với cá chép, cỡ nhỏ bằng ngón tay cái, thân dẹp và ngắn. Cá mại nấu canh chua Cá hóa long Cá hóa rồng. Theo truyền thuyết phương Đông, cá chép có thể vượt vũ môn và hóa thành rồng. Nghĩa bóng chỉ việc học hành đỗ đạt, có công danh. Đây được cho là hai câu hát mỉa mai nhau của hai nhà họ Nguyễn và họ Hồ, đều là bá hộ làng Niêm Phò ngày trước nay thuộc huyện Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế. Họ Hồ có cô con gái tên Qui, họ Nguyễn có người con trai tên Mại. Hai ông chồng đều muốn làm sui với nhau nhưng hai bà vợ không chịu nên mới có câu hát đối đáp nhau như thế. Nguyễn Văn Mại sau này đỗ đạt cao, làm đến quan nhất phẩm triều Nguyễn. Theo sách Cố đô Huế của Thái Văn Kiểm Theo sách Cố đô Huế của Thái Văn Kiểm Theo cụ Tùng Lâm, câu này do đám dân chài làng Quảng Tế, huyện Hương Trà đặt ra để nhắc lại sự tích ông Huỳnh Hữu Thường, con một ngư phủ, mà biết chăm lo việc học hành, thi đỗ Cử nhân, rồi đỗ Hoàng giáp, làm quan đến Thượng thư. Vua Tự Đức rất mến ông, nhận thấy làng ông không có đất đai chi cả, bèn hạ chỉ cắt 20 mẫu đất làng Nguyệt Biều giao cho làng Quảng Tế để có đất cho dân cư ngụ, trồng trỉa và xây cất đền chùa. Tam Thai Còn gọi là Tả Phụ Sơn, tên một ngọn núi thấp thuộc phường An Cựu Huế. Tam Thai nằm cạnh núi Ngự Bình, cùng với núi Bân Hữu Bật Sơn tạo nên thế "Đệ nhất án sơn" cho kinh thành Huế. Bảng vàng Từ chữ kim bảng 金榜, chỉ tấm biển đề tên những thí sinh thi đỗ dưới thời phong kiến. "Chiếm bảng vàng" hay "giật bảng vàng" vì thế nghĩa là thi cử đỗ đạt. Canh cửi Sợi chỉ dọc canh hoặc kinh trên Khung cửi">khung dệt cửi. Chỉ công việc dệt vải, dệt lụa. Dệt cửi Sông Hương Tên con sông rất đẹp chảy ngang thành phố Huế và một số huyện của tỉnh Thừa Thiên-Huế. Tùy theo giai đoạn lịch sử, sông còn có các tên là Linh Giang, Kim Trà, Hương Trà... Ngoài ra, người xưa còn có những tên địa phương như sông Dinh, sông Yên Lục, sông Lô Dung... Sông Hương đã được đưa vào rất nhiều bài thơ, bài hát về Huế, đồng thời cùng với núi Ngự là hình ảnh tượng trưng cho vùng đất này. Cầu Tràng Tiền bắc ngang qua sông Hương Mỹ Á Tên một làng thuộc địa phận xã Vinh Hải, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nam Trường Địa danh nay là một làng thuộc xã Vinh Giang, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Mỹ Lợi Làng cổ thành lập từ thế kỉ 16, thuộc xã Vinh Mỹ, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Làng nổi tiếng với nhiều sản vật như cau, khoai mài, tơ đủi, lụa, thao, nón lá, các loại hải sản nuôi đầm, Đình làng Mỹ Lợi Sịa Một địa danh nay là tên thị trấn của huyện Quảng Điền nằm ở phía bắc của Thừa Thiên-Huế, cách thành phố Huế khoảng 30km theo hướng Đông trên Quốc lộ 1. Về tên Sịa, có một số giả thuyết - Sịa là cách đọc trại của sỉa, cũng như sẩy trong sẩy chân, nghĩa là vùng trũng, vùng sỉa, lầy. - Sịa là cách đọc trại của sẻ. Vùng Sịa xưa là vùng có nhiều lúa, chim sẻ thường về. - Sịa là cách đọc trại của sậy, vì trước đây vùng này nhiều lau sậy. Núi Truồi Tên một ngọn núi thuộc dãy Bạch Mã, một dãy núi làm ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Thừa Thiên-Huế và thành phố Đà Nẵng. Huế Một địa danh ở miền Trung, nay là thành phố thủ phủ của tỉnh Thừa Thiên-Huế. Là kinh đô của Việt Nam dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn 1802 - 1945, Huế còn được gọi là đất Thần Kinh ghép từ hai chữ kinh đô và thần bí hoặc cố đô. Huế là một vùng đất thơ mộng, được đưa vào rất nhiều thơ văn, ca dao dân ca và các loại hình văn học nghệ thuật khác, đồng thời cũng là mảnh đất giàu truyền thống văn hóa với nón Bài Thơ, nhã nhạc cung đình, ca Huế, các đền chùa, lăng tẩm, các món ẩm thực đặc sắc... Địa danh "Huế" được cho là bắt nguồn từ chữ "Hóa" trong Thuận Hóa, tên cũ của vùng đất bao gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế. Cầu Tràng Tiền bắc ngang qua sông Hương, một biểu tượng của Huế Thành Nội Đàn Nam Giao Nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm, thuộc địa phận phường Trường An, thành phố Huế. Đây là đàn Nam Giao duy nhất còn hiện hữu dù trong tình trạng không còn nguyên vẹn ở Việt Nam, cũng là đàn tế duy nhất còn tồn tại trong số nhiều đàn tế cổ ở Huế. Đàn Nam Giao Câu ca dao được cho là của người dân Huế đặt sau 1975, nhân vụ việc tùy tiện cải biến đàn Nam Giao của hai lãnh đạo tỉnh Bình Trị Thiên lúc đó là Bùi San Bí thư Tỉnh ủy và Trần Hoàn Ty trưởng Ty Văn hóa. Câu đối cụ Phan, chữ nghè Đàn "Trước năm 1945, ở Huế có ông Hoàng Hữu Đàn, với nét chữ đẹp tuyệt nam bắc đều lấy làm ngưỡng mộ. Ông Đàn người gốc làng Bích Khê, tỉnh Quảng Trị, học rộng, đậu tú tài cả Hán học lẫn Tây học, làm thông phán tòa sứ ở Huế. Ông hoạt động yêu nước, đã hai lần đi dự lớp huấn luyện tại Côn Minh Trung Quốc. Chữ của ông nghè Đàn đẹp nổi tiếng. Du khách ở xa đến Huế có thói quen đi tìm cho được cụ Phan Bội Châu để xin một câu đối, rồi ra tận Quảng Trị tìm ông Hoàng Hữu Đàn để nhờ viết hộ câu đối. Đó là món quà trang nhã, kỉ niệm một chuyến đi xa được người đương thời ưa chuộng...'" Thư pháp - Hoàng Phủ Ngọc Tường Con Nguồn Dinh Chỉ những người sinh ra và lớn lên ở nội thành Huế. Cá kình Cá voi. Trong thơ văn cổ, hình ảnh cá kình thường tượng trưng cho những người mạnh mẽ hoặc hung tợn. Cá chép Tên Hán Việt là lí ngư, một loại cá nước ngọt rất phổ biến ở nước ta. Ngoài giá trị thực phẩm, cá chép còn được nhắc đến trong sự tích "cá chép vượt vũ môn hóa rồng" của văn hóa dân gian, đồng thời tượng trưng cho sức khỏe, tài lộc, công danh. Ở một số địa phương miền Trung, cá chép còn gọi là cá gáy. Cá chép Con Nguồn Bồ Chỉ những người Huế sinh ra và lớn lên ở nơi khác hoặc ở ngoại thành, ví như dòng sông Bồ từ Lại Bằng, Phú Ốc chảy quanh co bao bọc phía Đông Bắc thành phố Huế. Hương Cần Một làng bên sông Bồ, thuộc xã Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên–Huế. Quýt Hương Cần là giống quýt quý hiếm nổi tiếng, sinh thời Nguyễn Du và Tùng Thiện Vương có làm thơ ca tụng. Quýt Hương Cần Cốm hai lu Một kiểu bán bánh cốm đặc trưng của các o ở Huế ngày trước chứa cốm trong hai cái lu lớn gánh đi bán. An Thuận Một làng nay thuộc địa phận Hương Toàn, Hương Trà, Huế. Làng có nghề truyền thống là làm cốm dẹp. Lan, Đính, Chính, Tường Lê Mậu Lan, nguyên giám đốc nhà máy xi măng Long Thọ; Nguyễn Hữu Đính, kĩ sư nông lâm; Ngô Thế Chính, phó tiến sĩ sử học, nguyên hiệu trưởng trường Đồng Khánh giờ là trường Hai Bà Trưng; Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn. Đây là bốn nhân vật ở Huế bị chính quyền cộng sản nghi kị sau 1975.
Bài ca dao ba câu lục bát, dừng lại ở câu lục, một hiện tượng độc đáo, ít thấу trong thơ ca dân gian“Đường ᴠô хứ Huế quanh quanhNon хanh nước biếc nhu tranh họa ᴠô хứ Huế thì ᴠô…” Có nhiều người cho rằng bài ca dao nàу nói ᴠề cảnh đẹp хứ Huế. Chưa đầу đủ. Không gian địa lí ᴠà không gian nghệ thuật được nói trong bài ca dao rộng lớn hơn đang хem đường ᴠô хứ huế quanh quanh non хanh nước biếc như tranh họa đồ ai ᴠô хứ huế thì ᴠô Câu thứ nhất nói ᴠề “đường ᴠô хứ Huê”, đó là con đường rất dài phải qua chí ít ѕáu tỉnh miền Trung từ Bắc đi ᴠào Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Hai chữ “quanh quanh” gợi tả ѕự uốn lượn, khúc khuỷu, hiểm trở, gập ghềnh хa хôi. Ngàу хưa ᴠô Huế phải ᴠượt qua “Hoành Sơn nhất đái” một dải Hoành Sơn, phải ᴠượt qua bao ѕông ѕuối, núi đèo; ѕông Mã, ѕông Lam, ѕông La, ѕông Gianh, ѕông Thạch Hãn… đến ѕông Hương núi Ngự. Phải qua núi Hồng Lĩnh, đèo Ngang, lũу Thầу, truông Nhà Hồ, phá Tam Giang…Hồng Sơn cao ngất mấу tầng,Đò Cài mấу trượng là lòng bấу nhiêu !Nguуễn Du“Yêu em anh cũng muốn ᴠô,Sợ truông Nhà Hồ, ѕợ phá Tam Giang”Ca dao Câu thứ hai nêu lên một ấn tượng khái quát ᴠề cảnh ѕắc thiên nhiên trên “đường ᴠô хứ Huê”. “Non хanh nước biếc” ᴠừa là thành ngữ ᴠừa là hình ảnh rất đẹp, có màu “хanh” bất tận của non, có màu “biếc” mê hồn của thêm Lưu Ý Khi Ăn Gạo Lứt Muối Vừng, Tác Dụng Tuуệt Vời Của Gạo Lứt Muối Mè Đó là cảnh ѕông núi tráng lệ, hùng ᴠĩ, hữu tình, nên thơ… “Non хanh nước biếc” ấу lại được ѕo ѕánh “như tranh họa đồ” gợi lên trong lòng người niềm tự hào ᴠề giang ѕơn gấm ᴠóc, ᴠề quê hương đất nước kì thú, хinh đẹp, mến уêu. Câu cuối là lời chào mời chân tinh, như một tiếng lòng ᴠẫу gọi “Ai ᴠô хứ Huế thì ᴠô“… Vô хứ Nghệ haу ᴠô хứ Huế là đến ᴠới một miền quê rất đẹp, rất đáng уêu có “Non хanh nước biếc như tranh họa đồ”. Bởi thế, nhà thơ Huу Cận mới ᴠiết… “Ai đi ᴠô nơi đâуXin dừng chân хứ NghệAi đi ra nơi nàуXin chân dừng хứ câu hò ᴠí giặmCàng lắng lại càng ѕâuNhư ѕông La chảу chậmĐọng bao thủa ᴠui ѕầu”“Gởi bạn người Nghệ Tĩnh” Bài ca dao “Đường Vớ хứ Huế quanh quanh" đích thực là một ᴠiên ngọc trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam. Nó là bài ca ᴠề tình уêu ᴠà niềm tự hào đối ᴠới quê hương đất nước. Hình tượng mĩ lệ, ᴠần điệu nhạc điệu du dương. Ba chữ “ᴠô” rất mộc mạc đậm đà. Vần chân, ᴠần lưng, điệp thanh phối hợp hài hòa “quanh quanh – хanh – tranh”, “ᴠô – đồ – ᴠổ – ᴠô“, gợi lên ѕự ân cần tha thiết. “Ai” là đại từ nhân хưng phiếm chỉ, nhưng người đọc, dù quê hương ở đâu ᴠẫn cảm thấу mình đang được mời gọi.
Bài văn mẫu lớp 7Văn mẫu lớp 7 Phân tích bài ca dao Đường vô xứ Huế quanh quanh dưới đây được tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 7 hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra môn Ngữ văn 7 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham ca dao Đường vô xứ Huế quanh quanhBài ca dao ba câu lục bát, dừng lại ở câu lục, một hiện tượng độc đáo, ít thấy trong thơ ca dân gian“Đường vô xứ Huế quanh quanhNon xanh nước biếc như tranh họa vô xứ Huế thì vô…”Có nhiều người cho rằng bài ca dao này nói về cảnh đẹp xứ Huế. Chưa đầy đủ. Không gian địa lý và không gian nghệ thuật được nói trong bài ca dao rộng lớn hơn thứ nhất nói về “đường vô xứ Huế”, đó là con đường rất dài phải qua chí ít sáu tỉnh miền Trung từ Bắc đi vào Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Hai chữ “quanh quanh” gợi tả sự uốn lượn, khúc khuỷu, hiểm trở, gập ghềnh xa xôi. Ngày xưa vô Huế phải vượt qua “Hoành Sơn nhất đái” một dải Hoành Sơn, phải vượt qua bao sông suối, núi đèo; sông Mã, sông Lam, sông La, sông Gianh, sông Thạch Hãn… đến sông Hương núi Ngự. Phải qua núi Hồng Lĩnh, đèo Ngang, lũy Thầy, truông Nhà Hồ, phá Tam Giang…Hồng Sơn cao ngất mấy tầng,Đò Cài mấy trượng là lòng bấy nhiêu!Nguyễn Du“Yêu em anh cũng muốn vô,Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”Ca daoCâu thứ hai nêu lên một ấn tượng khái quát về cảnh sắc thiên nhiên trên “đường vô xứ Huế”. “Non xanh nước biếc” vừa là thành ngữ vừa là hình ảnh rất đẹp, có màu “xanh” bất tận của non, có màu “biếc” mê hồn của nước. Đó là cảnh sông núi tráng lệ, hùng vĩ, hữu tình, nên thơ… “Non xanh nước biếc” ấy lại được so sánh “như tranh họa đồ” gợi lên trong lòng người niềm tự hào về giang sơn gấm vóc, về quê hương đất nước kỳ thú, xinh đẹp, mến cuối là lời chào mời chân tình, như một tiếng lòng vẫy gọi “Ai vô xứ Huế thì vô “… Vô xứ Nghệ hay vô xứ Huế là đến với một miền quê rất đẹp, rất đáng yêu có “Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”. Bởi thế, nhà thơ Huy Cận mới viết“Ai đi vô nơi đâyXin dừng chân xứ NghệAi đi ra nơi nàyXin chân dừng xứ NghệNghe câu hò ví giặmCàng lắng lại càng sâuNhư sông La chảy chậmĐọng bao thuở vui sầu”“Gởi bạn người Nghệ Tĩnh”Bài ca dao “Đường vô xứ Huế quanh quanh” đích thực là một viên ngọc trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam. Nó là bài ca về tình yêu và niềm tự hào đối với quê hương đất nước. Hình tượng mỹ lệ, vần điệu nhạc điệu du dương. Ba chữ "vớ“ rất mộc mạc đậm đà, vần chân, vần lưng, điệp thanh phối hợp hài hòa “quanh quanh – xanh – tranh”, “vô – dồ – vô – vô“, gợi lên sự ân cần tha thiết. “Ai” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, nhưng người đọc, dù quê hương ở đâu vẫn cảm thấy mình đang được mời đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Phân tích bài ca dao Đường vô xứ Huế quanh quanh cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 7 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 7 và biết cách soạn bài lớp 7 các bài Tác giả - tác phẩm ngữ văn 7 trong sách Văn tập 1 và tập 2. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.
Ai Là Triệu Phú hiện đang là chương trình nhận được sự quan tâm của khán giả kể từ sau khi thay đổi MC và kỷ lục trả lời tới câu 15 của phượt thủ Trần Đặng Đăng Khoa được thiết lập. Nhưng ở tập phát sóng mới nhất ngày 19/1/2021, chương trình lại gây ra 1 cuộc tranh cãi trên mạng xã hội về nội dung và đáp án của 1 câu đó, ở lượt thi của thí sinh Vũ Thị Phương, một chuyên viên y khoa, MC Đinh Tiến Dũng đã đọc câu hỏi thứ 1 trị giá đồng có nội dung Từ nào còn thiếu trong câu ca dao "Đường vô xứ ... quanh quanh / Non xanh nước biếc như tranh họa đồ."Ảnh Cắt màn hình4 đáp án mà chương trình đưa ra cho người chơi lựa chọn là Thanh/Nghệ/Huế/Đoài. Ngay lập tức. thí sinh đã đưa ra câu trả lời là Đường vô xứ Nghệ quanh quanh, sau đó "giáo sư" Xoay đã thông báo kết quả chính xác, qua đó người chơi được quyền đi tiếp các câu hỏi nhưng sau khi phát sóng, câu hỏi này đã gây ra luồng tranh cãi khá lớn trên nhiều diễn đàn. Theo ghi nhận, một số ý kiến cho rằng, câu hỏi trên tồn tại cả 2 đáp án có thể chấp nhận là Nghệ và dung câu hỏi trích lược 2 câu ca dao, nói đến ca dao tức là nói đến các sáng tác dân gian được cha ông lưu giữ cho thế hệ sau bằng cách truyền miệng. Dù là Huế hay là Nghệ thì câu ca dao cũng có ý nghĩa ca ngợi vẻ hữu tình non nước của địa danh được nhắc đến. Nhưng rõ ràng, khi trở thành 1 câu hỏi của Ai Là Triệu Phú thì phải đảm bảo được yếu tố chỉ có 1 đáp án đúng duy nhất, vậy đâu mới là câu trả lời chính xác?Ảnh InternetTheo nhiều tài liệu ghi chép, nghiên cứu của các nhà chuyên môn cho thấy câu ca dao nguyên bản sẽ làĐường vô xứ Nghê quanh quanhNon xanh nước biếc như tranh hoạ đồAi vô xứ Nghệ thì vô…Vì tính chất của các tác phẩm văn học dân gian, mang tính truyền miệng do đó có nhiều bản khảo dị được biến tấu để phù hợp với từng địa phương. Trong đó 2 bản khảo di phổ biến nhất vẫn làĐường vô xứ Huế quanh quanhNon xanh nước biếc như tranh hoạ đồAi vô xứ Huế thì vô…VàĐường vô xứ Nghệ quanh quanhNon xanh nước biếc như tranh hoạ đồYêu em anh cũng muốn vô,Sợ truông nhà Hồ Sợ phá Tam GiangNhư vậy, ở câu hỏi này của Ai Là Triệu Phú, nếu không tính các dị bản thì Nghệ chính là từ còn thiếu duy nhất cần điền vào chỗ Cắt màn hìnhĐây không phải là lần đầu tiên Ai Là Triệu Phú gây thắc mắc về câu hỏi và đáp án. Dù mới trải qua 3 số của năm 2021 nhưng ngay ở tập ghi hình phượt thủ Trần Đặng Đăng Khoa, chương trình cũng gây tranh cãi ở câu hỏi số 3. Câu hỏi có nội dung Loài chim nào sau đây có thể bắt chước được tiếng người? 4 đáp án để Đăng Khoa lựa chọn là chích bông, họa mi, quạ và chơi nhanh chóng đưa ra câu trả lời là vẹt và được MC chấp nhận, qua đó giúp anh tiến xa hơn ở 12 câu hỏi còn lại. Nhưng với kiến thức thực tế được chứng minh trong nhiều tài liệu thì trong 4 đáp án của chương trình, có nhiều hơn 1 loài chim có thể biết bắt chước tiếng người, đó là quạ và vẹt.
đường vô xứ huế quanh quanh